Ursoliv 250, cải thiện chức năng gan trong xơ gan nguyên phát, tán sỏi
Thuốc Ursoliv 250 là gì Ursoliv 250 là thuốc thuộc nhóm trị sỏi thận, mang...
425.000₫
Mỗi viên nang cứng Advagraf 5mg phóng thích kéo dài chứa: 5 mg tacrolimus (monohydrate).
Viên nang chứa
Vỏ viên nang
Mực in trên thuốc (Opacode S-1-15083)
Tacrolimus tương kị với PVC (polyvinylchloride). Ống, xi lanh và các dụng cụ khác dùng để chuẩn bị huyền dịch của viên nang Advagraf không được chứa PVC.
Quá mẫn cảm đổi với tacrolimus, hoặc với bất kì thành phần tá được nào của thuốc (xem Danh sách thành phần tá được)
Quá mẫn cảm với các macrolide khác.
Advagraf là dạng bảo chế uống ngày một lần của tacrolimus. Điều trị Advagraf đòi hỏi phải có sự giám sát cân thận bởi các nhân viên được trang bị kiến thức và dụng cụ thích hợp. Loại thuốc này chỉ được dùng khi bác sỹ kê toa, và những thay đổi trong điều trị ức chế miễn dịch chỉ được thực hiện bởi các bác sỹ có kinh nghiệm trong điều trị ức chế miễn dịch và xử trí những bệnh nhân ghép tạng.
Sự ngừng sử dụng không thận trọng, không có chủ ý hoặc không được giám sát của các dạng bào chế thuốc tacrolimus phóng thích nhanh hay kéo dài là không an toàn.Điều này có thể dẫn đến sự thải ghép hay tăng tần suất của các tác dụng phụ, bao gdm tre ché mién dich khéng đủ hoặc quá mức, do những khác biệt có ý nghĩa lâm sàng ở các nông độ thuốc tacrolimus. Bệnh nhân nên được duy trì với một dạng bào chế của tacrolimus với chế độ liều hàng ngày tương ứng: những thay đổi về dạng bào chế hay phác đồ chỉ được thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của một chuyên gia thải ghép (xem phần Lưu ý quan trọng và thận trọng khi sử dụng và phần Các tác dụng ngoại ý). Sau khi chuyên qua dạng bào chế khác, theo dõi điều trị thuốc phải được thực hiện và điều chỉnh liều để đảm bảo duy trì nồng độ toàn thân của tacrolimus.
Liều dùng khuyến cáo ban đầu thê hiện bên dưới chỉ nên xem như hướng dẫn. Advagraf được cho dùng thường quy kết hợp với các thuốc ức chế miễn dịch khác trong giai đoạn đầu sau phẫu thuật. Liều dùng có thể thay đổi phụ thuộc vào phác đồ ức chế miễn dịch được chọn. Liều Advagraf nên chủ yếu dựa vào đánh giá lâm sàng của sự thải ghép và khả năng dung nạp của mỗi cá nhân bệnh nhân dựa trên theo dõi nồng độ thuốc trong máu (xem “Theo dõi thuốc điều trị” bên đưới). Nếu dấu hiệu lâm sàng của thải ghép trở nên rõ ràng, thì phải xem xét việc thay đôi phác đô ức chê miền dịch.
Ở những bệnh nhân mới ghép gan và thận, AUC0-24 của tacrolimus của Advagraf trong Ngày 1 thì thấp hơn lần lượt là 30% và 50% so với viên nang phóng thích lập tức (Prograf) ở cùng liều. Vào ngày 4, đáp ứng hệ thống được đo lường bởi nồng độ đáy thì tương tự đối với cả những bệnh nhân ghép gan và thận với cả hai dạng bào chế. Theo dõi cần thận và thường xuyên nồng độ đáy của tacrolimus được khuyến cáo trong hai tuần đầu tiên sau ghép với Advagraf để đảm bảo nồng độ thuốc đầy đủ trong khoảng thời gian ngay sau phép tạng. Vì tacrolimus là một chất có độ thanh thải thấp, điều chỉnh chế độ liều Advagraf có thể cần vài ngày để đạt được giai đoạnổn định.
Để ức chế sự thải ghép, ức chế miễn dịch phải được duy trì; vì vậy, không có giới hạn về thời gian đôi với phác đô thuôc uông có thê được sử dụng.
Điều trị Advagraf nên khởi đầu với liều 0,20- 0,30 mg/kg/ngày, dùng ngày một lần vào buổi sáng. Dùng thuốc nên bắt đầu trong vòng 24 giờ sau khi hoàn tất phẫu thuật. Liều Advagraf thường được giảm trong thời gian sau ghép. Trong một số ca có thể ngưng điều trị thuốc ức chế miễn dịch đi kèm, chỉ sử dụng Advagraf đơn trị liệu. Những thay đôi về tinh trạng của bệnh nhân sau ghép có thể thay đổi tính chất dược lý của tacrolimus và có thể đòi hỏi chỉnh liều thêm nữa.
Điều trị Advagraf nên khởi đầu với liều 0,10 – 0,20 mg/kg/ngày, dùng ngày một lần vào buổi sáng. Dùng thuốc nên bắt đầu khoảng 12-18 giờ sau khi hoàn tất phẫu thuật. Liều Advagraf thường được giảm trong thời gian sau ghép. Trong một số ca có thể ngưng điều trị thuốc ức chế miễn dịch đi kèm, chỉ sử dụng Advagraf đơn trị liệu. Những thay đổi về tình trạng của bệnh nhân sau ghép có thể thay đổi tính chất được lý của tacrolimus và có thê đòi hỏi chỉnh liều thêm nữa.
Những bệnh nhân ghép tạng dị sinh đang được duy trì liều ngày 2 lần với viên nang Prograf cần chuyển qua ngày một lần Advagraf nên được chuyền theo tỉ lệ 1: 1 (mg:mg) trên tổng liều hàng ngày. Hung, – nên được uống vào buổi sáng. Ở những bệnhnhân ổnô Wjnh được chuyển từ viên nang Prograf (ngày hai lần) sang Advagraf (ngày một lần) theo tỉ lê`:1 (mg:mg) theo tong liều hằng ngày, nồng độ toàn thân đối với tacrolimus (AUCO-240dvới Advagraf thì thấp hơn khoảng 10% so với Prograf. Mỗi tương quan giữa các nồng để đấy của tacrolimus (C24) và nông độ toàn thân (AUCO-24) đối với Advagraf thì tương tự như nhau. Khi chuyển từ viên nang Prograf sang Advagraf, nồng độ đáy nên được đo trước khi chuyên qua và trong vòng hai tuần sau khi chuyển thuốc. Sau khi chuyển thuốc, nồng độ đáy tacrolimus phải được theo dõi và chỉnh liều nêu cần thiết để duy trì nồng độ toàn thân tương tự.
Phải thận trọng khi chuyển bệnh nhân từ liệu pháp điều trị chủ yếu dựa trên ciclosporin sang chủ yếu dựa trên tacrolimus (xem phần Lưu ý đặc biệt và thận trọng khi sử dụng và phần Tương tác với các thuốc khác và các hình thức tương tác khác). Sử dụng kết hợp giữa ciclosporin va tacrolimus không được khuyến cáo. Điều trị với Advagraf chỉ nên bắt đầu sau khi xem xét nồng độ ciclosporin máu và tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Nên hoãn dùng thuốc nếu có mức nồng độ ciclosporin trong máu tăng. Trong thực hành, liệu pháp điều trị chủ yếu dựa trên tacrolimus đượckhởi đầu 12-24 giờ sau khi ngưng ciclosporin. Theo đối nồng độ ciclosporin máu nên được tiếp tục sau khi chuyển thuốc vì độ thanh thải của ciclosporin cé thé bi ảnh hưởng.
Tang liéu tacrolimus, bd sung trị liệu corticosteroid, và đưa vào một liệu trình ngăn của kháng thể đơn/đa dòng, tất cả đã từng được dùng để xử trí những giai đoạn thải ghép. Nếu có dầu hiệu độc tính như các phản ứng thuốc nặng đã được ghỉ nhận (xem phần Các tác dụng ngoại ý), liêu Advagraf có thê cân phải giảm.
Đối với việc chuyển từ các thuốc ức chế miễn dịch khác sang Advagraf ngày một lần, việc điều trị nên bắt đầu với liều uống khởi đầu như liều được khuyến cáo tương ứng cho trường hợp phòng ngừa thải ghép ở ghép gan hoặc thận.
Ở những bệnh nhân trưởng thành được chuyên sang Advagraf, liêu uông ban đầu 0,15 mg/kg/ngày nên được dùng ngày một lân vào buôi sáng
Mặc dù không có kinh nghiệm lâm sang voi Advagrafởnhững bệnh nhân đượcghépphổi, tụy hay ruột, Prograf đã được sử dụng trên những bệnh nhân được ghép phổi với liều khởi đầu bằng đường uống là 0,10 – 0,15 mg/kg/ngày, trênnhững bệnh nhân ghép tụy liều khởi đầu đường uống là 0,2 mg/kg/ngày và trong ghép ruột với liều khởi đầu là 0,3 mg/kg/ngày.
Suy gan: Giảm liều có thê cân thiết trên những bệnh nhân có suy gan nặng đề duy tri nông độ đáy của tacrolimus trong khoảng đích được khuyên cáo.
Suy thân: Vì các đặc tính dược lý học của tacrolimus không bị ảnh hưởng ‘pailSite nang than (xem phần Các đặc tính Dược lý học), không cần thiết phải điều chỉnh liều. Tuy nhiên, do tacrolimus có khả năng độc thận nên cần theo dối cân thận chức năng thận (bao gồm nồng độ creatinine huyết thanh đo làm nhiều lần, tính toán độ thanh thai creatinine và theo dõi lượng nước tiểu).
Chủng tộc: Khi so sánh với người da trắng, bệnh nhân da đen cân liều tacrolimus cao hơn dé đạt được nông độ đáy tương đương.
Giới tính: Không có bằng chứng cho thấy rằng những bệnh nhân nam và nữ cần những liều khác nhau đề đạt được nông độ đáy tương đương.
Bệnh nhân lớn tuổi: Hiện không có bằng chứng cho thấy rằng cần chỉnh liều thuốc trên những bệnh nhân lớn tuôi.
Bệnh nhân trẻ em: Thông tin về an toàn, hiệu quả của Advagrafở trẻem dưới 18 tuổi chưa được xác lập. Dữ liệu hiện có giới hạn nên không có khuyên cáo về chê độ liễu cho đỗi tượng này.
Liều dùng nên chủ yếu dựa trên đánh giá lâm sảng sự thải ghép và khả năng dung nap trên từng bệnh nhân riêng biệt và được hỗ trợ bởi theo doi nông độ đáy của tacrolimus trong máu toàn phần.
Để hỗ trợ chọn liều thuốc tối ưu, nhiều xét nghiệm miễn dịch hiện có được dùng để xác định nồng độ tacrolimus trong máu toàn phần. So sánh các néng độ từ những tài liệu đã được xuất bản với những nồng độ đơn lẻ trong thực hành lâm sàng phải được đánh giá với sự cần trọng và am hiểu của các phương pháp xét nghiệm miễn dịch đượcáp dụng. Trong thực hành lâm sang hién nay, nông độ trong máu toàn phần được theo dai bằng các phương pháp xét nghiệm miễn dịch. Mối tương quan giữa nồng độ đáy của tacrolimus (C24) và nông độ toàn thân (AUC 0-24) là trơng đương nhau giữa hai thuốc Advagraf và Prograf.
Nồng độ đáy của tacrolimus phải được theo dõi trong suốt thời gian sau ghép tạng. Néng độ đáy của tacrolimus phải được xác định khoảng 24 giờ sau liều Avagraf, ngay trước khi uỗng liều tiếp theo. Khuyến cáo theo đối nồng độ đáy thường xuyên trong hai tuần đầu sau ghép tang, sau đó theo đối định kì trong suốt thời gian điều trị đuy trì. Nồng độ tacrolimus đây trong máu cũng cần được theo đối sát sau khi chuyển từ Prograf sang Advagraf, sau điều chỉnh liều, các thay đổi trong phác đồ điều trị ức chế miễn dịch, hoặc đồng sử dụng những thuốc mà nó có thể thay đổi nồng độ tacrolimus trong máu toàn phần (xem Tương tác với các thuốc khác và các hình thức tương tác khác). Tần suất của theo dõi nồng độ thuốc trong máu phải được dựa trên nhu cầu lâm sàng. Tacrolimus là một chất có độ thanh thải thấp, sau khi điều chỉnh liều Advagraf có thể cần vài ngày để đạt được tình trạng ổn định của nỗng độ đích.
Dữ liệu từ các nghiên cứu lâm sàng cho thấy phần lớn bệnh nhân có thể được xử trí thành công nếu nồng độ đáy của tacrolimus trong mau được duy trì dưới 20 ng/ml. Cần quan tâm tới tình trạng lâm sàng của bệnh nhân khi phân tích ý nghĩa các nồng độ thuốc trong máu toàn phần. Trong thực hành lâm sàng, nồng độ đáy trong máu thường ở khoảng 5-20 ng/ml ở những người ghép gan và 10-20 ng/ml ở những người ghép thận và ghép tim ở giai đoạn sớm sau ghép tạng. Trong suốt giai đoạn điều trị đuy trì sau đó, nỗng độ trong máu thường trong khoang 5-15 ng/ml 6 nhimg người được ghép gan, thận và tim.
Thường gặp: bệnh nhu mô phổi, khó thở, tràn dịch màng phối, ho, viêm họng, phủ nề và viêm mũi
it gặp: suy hô hấp, bệnh đường hô hấp, hen
Hiếm gặp: hội chứng suy hô hấp cấp
Advagraf là dạng bào chế của tacrolimus dùng đường uống ngày một lần. Khuyến cáo rằng liều uỗng hàng ngày của Advagraf nén được sử đụng ngày một lần vào buổi sáng. Viên nang cứng Advagraf tác dụng kéo dài nên được đùng ngay sau khi lấy ra khỏi vỉ thuốc. Bệnh nhân nên được hướng dẫn đề không nuốt chất hút ẩm. Viên nang phải được nuốt nguyên viên với chất lỏng tốt nhất là với nước). Advagraf thường nên uông khi dạ dày trống hoặc ít nhất 1 giờ trước bữa ăn hoặc 2 – 3 giờ sau bữa ăn, để đạt được sự hấp thu tối đa (xem Phần đặc tính dược động học). Nếu quên một liều buổi sáng thì phải uống lại càng sớm càng tốt trong cùng ngày. Không được uống liều gấp đôi vào buổi sáng hôm sau.
Ở những bệnh nhân không thể dùng thuốc đường uống trong thời gian ngay sau ghép tạng, điều trị với tacrolimus có thể khởi đầu bằng đường tiêm tĩnh mạch (xem Tóm tắt đặc tính sản phẩm đối với Prograf nồng độ 5 mg/ml cho dich để tiêm truyền) ở liều xấp xi 1⁄5 của liều uống được khuyến cáo cho chỉ định tương ứng.
Các sai lầm khi dùng thuốc, bao gồm thay đổi các dạng bào chế của thuốc tacrolimus phóng thích nhanh hay kéo đài một cách không cần thận, không chủ đích hay không được giám sát, đã từng xảy ra. Điều này đã dẫn đến các tác dụng ngoại ý nghiêm trọng, bao gồm thải ghép, hay các tác dụng phụ khác mà nó có thể là hệ quả của việc dùng tacrolimus thiểu hay quá liều. Bệnh nhân nên được điều trị duy trì với một dạng bào chế duy nhất của thuốc tacrolimus với liều hàng ngày tương ứng; những thay đổi về dạng bào chế hay phác đồ sử dụng chỉ được thực hiện đưới sự giám sát chặt chẽ của một chuyên gia ghép tạng (xem phần Liễu ding va phương pháp sử dụng và phần Các tác dụng ngoại ý).
Advagraf không được khuyến cáo sử dụng ở trẻ em dưới 18 tuổi do có ít dữ liệu về hiệu quả và/hoặc tính an toàn.
Để điều trị thải ghép dị sinh kháng với các thuốc ức chế miễn dịch khác ở người trưởng thành thì những đữ liệu lâm sàng chưa có đôi với thuôc Advagraf phóng thích kéo dải.
Đối với việc phòng ngừa thải ghép ờ những người nhận tim ghép trưởng thành thì dữ liệu lâm sàng cũng chưa có đổi với Advagraf.
Trong thời kì đầu sau ghép, phải thực hiện theo đối các thông số sau một cách thường qui và định kỳ: Đo huyết áp, điện tim, trạng thái thần kinh và thị giác, đường huyết lúc đói, điện giải (đặc biệt là kali máu), xét nghiệm chức năng gan và thận, các thông số huyết học, chức năng đông máu và lượng protein huyết thanh. Nếuthầy có các thay đổi quan trọng về mặt lâm sang, nên xem xét việc điều chỉnh các thuốc ức chế miễn địch.
Khi có các chất có khả năng tương tác khi sử dụng chung với tacrolimus (xem Tương tác với các thuốc và các hình thức tương tác khác) – đặc biệt những chất ức chế mạnh CYP3A4 (như ketoconazole, voriconazole, itraconazole, telithromycin hay clarithromycin) hay các dẫn chất của CYP3A4 (như rifampin, rifabutin) – nẵng độ tacrolimus trong máu phải được theo đối để điều chỉnh liều tacrolimus cho phù hợp để duy trì nồng độ tacrolimus tương đương.
Các thuốc dạng thảo dược kể cả St. John’s Wort (Hypericum perforatum) phải tránh dùng khi đang uống Advagraf bởi nguy cơ các tương tác thuốc có thể dẫn tới giảm nông độ thuốc trong máu và hiệu quả điều trị của tacrolimus (xem Tương tác với các thuốc khác và cav/hinth thức tương tác khác).
Phải tránh điều trị kết hợp ciclosporin và tacrolimus và cẩn trọng khi sử dụng tacrolimus trên những bệnh nhân trước đó có sử dụng ciclosporin (xem phân Liều dùng và phương pháp sử dụng và Tương tác với các thuôc khác và các hình thức tương tác khác).
Tránh sử dụng kali uống liều cao hoặc các thuốc lợi tiểu giữ kali (xem Tương tác với các thuôc khác và các hình thức tương tác khác).
Một số sự kết hợp nhất định giữa tacrolimus với các thuốc mà đã biết có thể gây độc thận hay độc thân kinh có thể làm tăng nguy cơ của những ảnh hưởng này (xem Tương tác với các thuôc khác và các hình thức tương tác khác).
Các thuốc ức chế miễn dịch có thể tác động đến sự đáp ứng với chủng ngừa và trong suốt thời gian điều trị với tacrolimus việc chủng ngừa có thể kém hiệu quả. Tránh sử dụng các loại vắc xin sống giảm độc lực.
Vì nồng độ tacrolimus trong máu có thể thay đổi đáng kể trong lúc tiêu chảy, theo đối thêm nồng độ tacrolimus được đề nghị trong các đợt tiêu chảy.
Phi đại thất hay phì đại vách ngăn, được báo cáo là bệnh lý cơ tim, đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị với Prograf trong một số ca hiểm gập và cũng có thể xảy ra với Advagraf. Hầu hết các trường hợp có thể phục hồi được, xây ra với nỗng độ đáy trong máu của tacrolimus cao hon nhiéu so với nồng độ tối đa đượckhuyến cáo. Các yêu tố khác được thấy làm tăng nguy cơ của những tình trạng lâm sàng này bao gôm bệnh tím mạch có trước đó, sử dụng corticosteroid, tăng huyết áp, suy chức năng gan hoặc thận, nhiễm trùng, quá tải dich va phù. Vì vậy cho nên, những bệnh nhân nguy cơ cao mà được điều trị ức chế miễn dịch mạnh thì phải được theo dõi, bằng cách sử dụng những cận lâm sảng như siêu âm hoặc điện tim trước và sau khi ghép tạng (ví dụ khởi đầu lúc 3 thang và sau đó 9- 12 tháng). Nếu thay có xuất hiện bất thường, giảm liễu Advagraf hay thay đổi điều trị qua những thuốc ức chế miễn địch khác phải được xem xét. Tacrolimus có thể làm kéo dải khoảng QT nhưng tại thời điểm này vẫn thiếu những bằng chứng rằng thuốc có thể gây ra xoắn đỉnh (Torsades de Pointes). Phải thận trọng trên những bệnh nhân có chẩn đoán hay nghỉ ngờ có hội chứng QT kéo dài bâm sinh.
Những bệnh nhân được điều trị với tacrolimus được báo cáo có bệnh lý tăng sinh lympho bao liên quan với nhiễm EBV (xem phần Các tác dụng ngoại ý). Một sự kết hợp của các thuốc ức chế miễn dịch như các kháng thể kháng Iympho (ví dụ basiliximab, daclizumab) cho dung đồng thời làm tăng nguy cơ các bệnh lý tăng sinh lympho bào liên quan với nhiễm EBV. Những bệnh nhân có EBV-VCA (EBV-Viral Capsid Antigen) âm tính đã được báo cáo có tăng nguy cơ phát trién các bệnh lý tăng sinh lympho bào. Vì thế, trong nhóm bệnh nhân này, xét nghiệm huyết thanh EBV-VCA nên được xác định trước khi bắt đầu điều trị với Advagraf. Trong suốt quá trình điều trị, khuyến cáo phải theo đôi cần thận với xét nghiệm PCR- EBV. PCR-EBV dương tính có thể tồn tại nhiều tháng và vì vậy không phải là chỉ điểm của bệnh tăng sinh lympho hoặc lymphoma.
Như với các thuốc ức chế miễn dịch mạnh khác, nguy cơ ung thư thứ phát chưa được biết (xem các tác dụng ngoại ý}
Như với các thuốc ức chế miễn dịch khác, do có khả năng gây các thay đổi ác tính ở đa, vì vậy phải hạn chế phơi nắng và tránh tia UV bằng cách mặc quần áo bảo vệ và sử dụng kem chống nắng có yêu tô bảo vệ cao.
Những bệnh nhân được điều trị với thuốc ức chế miễn dịch, bao gồm Advagraf thì có tăng nguy cơ nhiễm trùng cơ hội (vi trùng, nấm, vi rút và đơn bào). Trong cac bệnh lý nay thi bệnh thận do nhiễm ví rút BK và bệnh não chất trắng da ổ tiến triển có liên quan vi rút JC (PML). Những nhiễm trùng này thường liên quan tới tổng liều cao của thuốc ức chế miễn dịch và có thể dẫn tới các tình trạng bệnh lý nghiêm trọng hay nguy hiểm tới tính mạng, mà bác sỹ phải xem xét trong phần chân đoán phân biệt trên những bệnh nhân đang điều trị ức chế miễn dịch mà có tình trạng xấu đi trong chức năng thận hay có các triệu chứng thần kinh.
Bệnh nhân được điều trị với tacrolimus được báo cáo có hình thành hội chứng bệnh não sau có phục hồi (Posterior Reversible Enchphalopathy Syndrom-PRES). Nếu bệnh nhân đang sử dụng tacrolimus có biểu hiện các triệu chứng PRES như đau đầu, thay đôi trạng thái thần kinh, động kinh, rỗi loạn thị giác, thì nên làm xét nghiệm hình ảnh (ví dụ như MRI). Nếu có chấn đoán PRES, thì phải kiểm soát huyết áp và động kinh thích hợp và ngưng ngay thuốc tacrolimus. Hầu hết các bệnh nhân hồi phục hoàn toàn sau khi thực hiện các biện pháp điều chỉnh thích hợp.
Các trường hợp bất sản nguyên hồng cầu (PRCA) đã được báo cáo ở những bệnh nhân điều trị với Tacrolimus. Tất cả các bệnh nhân đã báo cáo các yếu tổ nguy cơ đối với PRCA như nhiễm virus parvo BJ9, bệnh nền hay kết hợp dược phẩm liên quan tới PRCA.
Không có nhiều kinh nghiệm trên những bệnh nhân không phải da trắng và những bệnh nhân có tăng nguy cơ miễn dịch (ví dụ tái ghép, có bằng chứng của phảnứng kháng thể, PRA).
Giảm liều có thể cần thiết trên những bệnh nhân có suy giảm chức năng gan nặng (xem liều dùng và phương pháp dùng thuốc).
Viên nang Advagraf chứa lactose. Những bệnh nhân có các bệnh ly di truyền hiếm như không dung nạp galactose, suy giảm chức năng men lactase, hoặc kém hấp thu glucose- galactose thì không nên dùng thuốc này, Mực in dùng để đóng dấu trên viên nang Advagraf có chứa soya lecithin. Ở những bệnh nhân bị quá mẫn cảm với đậu phộng hay đậu nành, nguy cơ và mức độ của sự quá mẫn cảm phải được cân nhắc so với lợi ích khi dùng Advagraf.
3 năm kê từ ngày sản xuất. 1 năm sau khi mở bao nhôm.
Bảo quản ở nhiệt độ không quá 30°C. Tránh ẩm.
Để xa tầm tay trẻ em