Dược lực
Propofol (2,6 diisopropylphenol) là một thuốc gây mê toàn thân tác dụng ngắn với thời gian khởi đầu tác dụng nhanh khoảng 30 giây. Thời gian hồi tỉnh sau gây mê thường nhanh. Cơ chế tác dụng, giống như mọi loại thuốc mê khác, được biết rất ít.
Nói chung, tụt huyết áp động mạch trung bình và thay đổi nhẹ nhịp tim đã được ghi nhận khi dùng Diprivan dẫn mê và duy trì mê. Tuy nhiên, các thông số huyết động học thường ở mức tương đối ổn định trong quá trình duy trì mê và các trường hợp có xu hướng thay đổi huyết động học có tỷ lệ thấp.
Mặc dù sự giảm thông khí có thể xảy ra sau khi dùng Diprivan, nhưng bất kỳ ảnh hưởng nào cũng đều tương tự về tính chất như với các loại thuốc mê đường tĩnh mạch khác và đều có thể kiểm soát dễ dàng trên thực hành lâm sàng.
Diprivan làm giảm lưu lượng máu não, áp lực nội sọ và chuyển hóa ở não. Tỷ lệ giảm áp lực nội sọ nhiều hơn ở bệnh nhân bị tăng áp lực nội sọ trước đó.
Giai đoạn phục hồi tri giác thường nhanh và bệnh nhân cảm thấy nhẹ nhõm, với rất ít các trường hợp đau đầu và buồn nôn, nôn sau phẫu thuật.
Nói chung, dùng Diprivan rất ít bị nôn và buồn nôn sau phẫu thuật so với các thuốc mê dùng bay hơi qua đường thở .
Có bằng chứng cho rằng điều này có thể liên quan đến hiệu quả chống nôn của propofol.
Dirprivan ở nồng độ sử dụng trên lâm sàng không ức chế tổng hợp các hormone thượng thận adrenocorticoid.
Dược động học
Sự suy giảm nồng độ propofol sau một liều tĩnh mạch hoặc sau khi ngưng truyền có thể được mô tả theo mô hình mở 3 ngăn. Giai đoạn đầu được đặc trưng bởi sự phân phối rất nhanh (thời gian bán hủy 2-4 phút), sau đó là thải trừ nhanh (thời gian bán hủy 30-60 phút) và giai đoạn cuối cùng chậm hơn, tiêu biểu cho sự tái phân phối propofol từ các mô ít được tưới máu.
Propofol được phân phối rộng và thải trừ nhanh khỏi cơ thể (tổng thanh thải của cơ thể 1,5-2 lít/phút). Sự thanh thải xảy ra qua các quá trình chuyển hóa, chủ yếu ở gan, để tạo ra các liên hợp không có hoạt tính của propofol và các quinol tương ứng sau đó được bài tiết qua nước tiểu.
Khi Diprivan được dùng để duy trì mê, nồng độ propofol trong máu sẽ đạt đến các trị số của trạng thái ổn định đối với liều dùng được cho. Dược động học có tính chất tuyến tính trong giới hạn khuyến cáo về vận tốc truyền của Diprivan.
Chỉ định
Diprivan là một thuốc gây mê tĩnh mạch tác dụng ngắn thích hợp cho việc dẫn mê và duy trì mê.
Diprivan cũng có thể được dùng để gây ngủ ở bệnh nhân thở máy đang được hồi sức.
Diprivan cũng dùng để an thần gây ngủ cho phẫu thuật và thủ thuật chẩn đoán.
Chống chỉ định
Chống chỉ định sử dụng Diprivan ở bệnh nhân đã biết có dị ứng với propofol.
Chú ý đề phòng
Diprivan phải được sử dụng bởi những chuyên viên đã được huấn luyện về gây mê (hoặc ở nơi thích hợp, bởi các bác sĩ đã được huấn luyện về chăm sóc bệnh nhân ở khoa hồi sức). Bệnh nhân nên được theo dõi liên tục kỹ lưỡng và nên có sẵn các phương tiện để duy trì thông đường thở, thở máy, oxy và các thiết bị hồi sức khác trong mọi lúc. Nhân viên tham gia thủ thuật chẩn đoán hay phẫu thuật không sử dụng Diprivan.
Khi dùng Diprivan để an thần, gây ngủ cho thủ thuật ngoại khoa và chẩn đoán, bệnh nhân cần được theo dõi liên tục các dấu hiệu sớm của hạ huyết áp, tắc nghẽn đường hô hấp và mất bão hòa oxy.
Cần lưu bệnh nhân trong một khoảng thời gian thích hợp trước khi chuyển đi để bảo đảm bệnh nhân đã hoàn toàn hồi phục sau gây mê.
Rất hiếm khi việc sử dụng Diprivan liên quan đến giai đoạn mất ý thức sau phẫu thuật, có thể kèm theo tăng trương lực cơ. Điều này có thể hay không thể được báo trước bằng một giai đoạn thức tỉnh. Mặc dù sự hồi phục có thể xảy ra, nhưng cần săn sóc thích hợp như đối với bệnh nhân mất ý thức.
Như với mọi loại thuốc gây mê khác, phải thận trọng khi dùng ở bệnh nhân có bệnh tim, phổi, thận, gan, giảm thể tích nội mạch hoặc suy kiệt.
Diprivan không có hoạt tính ức chế thần kinh phế vị và đã có các báo cáo về tình trạng nhịp tim chậm (đôi khi rất nặng) và ngoại tâm thu. Nên xem xét đến việc dùng một thuốc kháng phó giao cảm anticholinergic trước dẫn mê hoặc lúc duy trì mê, nhất là khi trương lực phó giao cảm có nhiều khả năng chiếm ưu thế hoặc khi Diprivan được dùng kèm với các thuốc có nhiều khả năng gây nhịp tim chậm.
Khi dùng Diprivan ở bệnh nhân động kinh, có thể có nguy cơ co giật.
Phải săn sóc thích hợp bệnh nhân có rối loạn chuyển hóa mỡ và các bệnh trạng khác trong đó nhũ tương lipid phải được sử dụng một cách thận trọng.
Nên theo dõi nồng độ lipid máu khi dùng Diprivan ở bệnh nhân được cho là có nguy cơ quá tải chất béo. Phải chỉnh liều Diprivan cho thích hợp nếu theo dõi cho thấy mỡ không được thanh lọc khỏi cơ thể một cách thỏa đáng. Nếu bệnh nhân đang được truyền tĩnh mạch một dung dịch lipid khác đồng thời, nên giảm liều dung dịch này để bù trừ cho lượng lipid sẽ được truyền nằm trong công thức bào chế Diprivan ; 1,0 ml Diprivan chứa khoảng 0,1 g chất béo.
Thận trọng lúc dùng
Diprivan không chứa các chất bảo quản kháng khuẩn và hỗ trợ sự phát triển của vi sinh vật. Khi bơm rút Diprivan, phải lấy thuốc ra một cách vô trùng vào một ống tiêm vô trùng hoặc bộ dụng cụ truyền ngay sau khi mở nắp lọ hoặc ống. Phải dùng ngay lập tức, không chậm trễ. Sự vô trùng phải được duy trì cho cả Diprivan lẫn bộ dụng cụ để truyền trong suốt quá trình. Mọi loại thuốc hoặc dịch truyền thêm vào đường dây Diprivan phải được tiến hành gần chỗ vị trí ống canula. Không nên truyền Diprivan qua màng lọc vi sinh.
Diprivan và tất cả ống tiêm chứa Diprivan được dùng một lần duy nhất trên một bệnh nhân. Cũng như các hướng dẫn trong việc truyền các nhũ tương lipid khác, một lần truyền Diprivan không nên vượt quá 12 giờ. Sau khi truyền xong hoặc hết hạn 12 giờ, tùy theo điều nào xảy ra trước, cả dịch chứa Diprivan lẫn đường truyền phải bị hủy bỏ và thực hiện thay thế thích hợp.
Ảnh hưởng lên khả năng lái xe và vận hành máy móc:
Phải thông báo cho bệnh nhân biết là các công việc đòi hỏi kỹ năng như lái xe hoặc vận hành máy móc có thể bị rối loạn một thời gian sau khi gây mê.
Lúc có thai và lúc nuôi con bú
Thai kỳ :
Không nên dùng Diprivan trong thai kỳ. Tuy nhiên cũng có trường hợp sử dụng Diprivan khi chấm dứt thai kỳ trong 3 tháng đầu.
Sản khoa :
Diprivan qua nhau và có thể liên quan với sự suy yếu của trẻ sơ sinh. Không nên dùng Diprivan để gây mê trong sản khoa.
Giai đoạn cho con bú :
Khi theo dõi việc dùng Diprivan ở phụ nữ cho con bú, sự an toàn của trẻ sơ sinh chưa được xác định.
Tương tác thuốc
Diprivan đã được dùng kết hợp với gây tê tủy sống và gây tê ngoài màng cứng với các thuốc tiền mê thông dụng, các thuốc chẹn thần kinh cơ, các thuốc gây mê qua đường thở và thuốc giảm đau ; không ghi nhận được sự tương kỵ dược lý nào. Diprivan có thể dùng ở liều thấp trong trường hợp gây mê được dùng như một biện pháp hỗ trợ với kỹ thuật gây tê vùng.
Tác dụng ngoại ý
Toàn thân :
Dẫn mê thường trôi chảy với ít biểu hiện kích thích. Trong giai đoạn dẫn mê, tụt huyết áp hoặc ngưng thở thoáng qua có thể xảy ra tùy liều lượng và thuốc tiền mê sử dụng và các tác nhân khác.
Đôi khi, có thể tụt huyết áp tới mức phải dùng dịch truyền và giảm vận tốc truyền Diprivan trong suốt giai đoạn duy trì mê.
Trong giai đoạn hồi phục, buồn nôn, nôn và nhức đầu chỉ xảy ra với một số ít bệnh nhân.
Đã có rất hiếm những báo cáo về tình trạng tiêu cơ vân khi dùng Diprivan ở liều > 4mg/kg/giờ để an thần trong hồi sức cấp cứu.
Các cử động dạng động kinh, bao gồm co giật và ưỡn cong người đã được ghi nhận một cách hãn hữu trong các giai đoạn dẫn mê, duy trì và hồi phục.
Hiếm khi có các đặc điểm lâm sàng của phản vệ, bao gồm co thắt phế quản, hồng ban và tụt huyết áp xảy ra sau khi dùng Diprivan.
Phù phổi cũng được ghi nhận trong một vài trường hợp tuy hiếm gặp, cũng đã có những báo cáo về sốt sau mổ.
Cũng như các thuốc gây mê khác, sự giải ức chế về tình dục có thể xảy ra.
Hiếm khi ghi nhận được sự đổi màu của nước tiểu sau khi dùng Diprivan lâu dài.
Viêm tụy rất hiếm khi được ghi nhận sau khi dùng Diprivan; mối quan hệ nhân quả vẫn chưa được thiết lập rõ ràng.
Tại chỗ :
Đau tại chỗ, có thể xảy ra trong giai đoạn dẫn mê, có thể được hạn chế bằng cách tiêm vào những tĩnh mạch lớn của mặt trước cẳng tay và tĩnh mạch hố trước xương trụ. Đau tại chỗ do dùng Diprivan cũng giảm bớt bằng cách dùng kèm lignocaine (xem Liều Lượng Và Cách Sử Dụng). Hiếm gặp huyết khối và viêm tĩnh mạch. Tai biến thoát mạch trên lâm sàng và các thử nghiệm trên súc vật cho thấy ít có phản ứng mô. Ở súc vật, tiêm vào động mạch không gây ra các tác dụng tại chỗ trên mô.
Liều lượng và cách dùng
Thường phải dùng thêm thuốc giảm đau với Diprivan.
Diprivan đã có được dùng kết hợp với gây tê tủy sống và gây tê ngoài màng cứng và với các thuốc tiền mê thông dụng, các thuốc chẹn thần kinh cơ, các thuốc gây mê qua đường thở và thuốc giảm đau ; không ghi nhận được sự tương kỵ dược lý nào. Diprivan có thể dùng ở liều thấp trong những trường hợp gây mê được dùng như một biện pháp hỗ trợ với kỹ thuật gây tê vùng.
A. Người lớn :
DẪN MÊ
Diprivan có thể dùng cho dẫn mê bằng cách tiêm chậm lặp lại hay truyền tĩnh mạch liên tục.
Ở bệnh nhân không có tiền mê và bệnh nhân đã có tiền mê, nên điều chỉnh Diprivan (khoảng 4 ml (40 mg) mỗi 10 giây cho một người lớn khỏe mạnh, cân nặng trung bình bằng tiêm lặp lại hay truyền liên tục) theo đáp ứng của bệnh nhân cho đến khi bệnh nhân có dấu hiệu bắt đầu mê. Đa số người lớn dưới 55 tuổi cần 1,5-2,5 mg/kg Diprivan. Tổng liều có thể giảm bằng cách giảm tốc độ tiêm truyền (20-50 mg/kg). Trên 55 tuổi, nhu cầu thường ít hơn. Ở bệnh nhân phân độ ASA độ 3 và 4, nên tiêm truyền ở tốc độ thấp hơn (khoảng 20 mg mỗi 10 giây).
DUY TRÌ MÊ
Có thể duy trì mê bằng cách truyền liên tục hoặc tiêm nhiều lần để duy trì độ sâu mê cần thiết.
Truyền liên tục : Vận tốc thay đổi rất nhiều giữa các bệnh nhân nhưng vận tốc trong khoảng từ 4 đến 12 mg/kg/giờ thường duy trì mê tốt.
Tiêm nhiều lần : Nếu dùng kỹ thuật tiêm nhiều lần, có thể tiêm mỗi đợt từ 25 mg (2,5 ml) tới 50 mg (5,0 ml) tùy nhu cầu lâm sàng.
GÂY NGỦ KHI SĂN SÓC TÍCH CỰC
Khi dùng để an thần-gây ngủ ở bệnh nhân thở máy đang hồi sức, nên truyền Diprivan liên tục. Vận tốc truyền phải được điều chỉnh theo độ sâu của giấc ngủ cần thiết, tuy nhiên vận tốc truyền trong khoảng 0,3 đến 4,0 mg/kg/giờ thường cho kết quả tốt.
AN THẦN GÂY NGỦ CHO PHẪU THUẬT VÀ THỦ THUẬT CHẨN ĐOÁN
Để an thần gây ngủ cho phẫu thuật và thủ thuật chẩn đoán, liều và tốc độ dùng nên được điều chỉnh cho từng cá nhân tùy theo đáp ứng lâm sàng.
Phần lớn bệnh nhân cần dùng liều 0,5-1 mg/kg qua thời gian 1-5 phút để khởi đầu cho an thần gây ngủ.
Duy trì an thần gây ngủ có thể cũng điều chỉnh liều tiêm truyền Diprivan đến mức cần thiết trên lâm sàng, phần lớn bệnh nhân ở mức 1,5-4,5 mg/kg/giờ. Cùng với truyền tĩnh mạch, việc dùng thuốc kiểu bồi hoàn lặp lại 10-20 mg mỗi lần có thể được dùng để tăng nhanh độ sâu của mê khi thấy cần thiết. Ở bệnh nhân có phân độ ASA độ 3 và 4, phải giảm tốc độ tiêm truyền và liều lượng.
B. Người lớn tuổi :
Ở bệnh nhân lớn tuổi, liều yêu cầu để dẫn mê bằng Diprivan được giảm bớt. Khi giảm liều, nên xem xét đến tình trạng thể chất và tuổi tác của bệnh nhân. Nên truyền liều đã giảm này ở tốc độ chậm hơn và điều chỉnh liều theo đáp ứng. Khi dùng Diprivan để duy trì mê hoặc an thần gây ngủ, cũng nên giảm tốc độ truyền hoặc giảm "nồng độ thuốc mục tiêu". Bệnh nhân độ 3 và 4 theo ASA sẽ cần giảm liều và tốc độ truyền hơn nữa. Không nên tiêm tĩnh mạch nhanh (liều đơn hoặc lặp lại) cho bệnh nhân lớn tuổi vì điều này có thể dẫn đến tình trạng trụy tim mạch - hô hấp.
C. Trẻ em :
DẪN MÊ
Diprivan không nên dùng ở trẻ em dưới 3 tuổi.
Khi dùng để dẫn mê ở trẻ em, Diprivan phải được cho chậm cho đến lúc có dấu hiệu lâm sàng của tình trạng bắt đầu mê. Phải điều chỉnh liều lượng theo tuổi và/hoặc cân nặng. Đa số bệnh nhi trên 8 tuổi có thể cần khoảng 2,5 mg/kg Diprivan để dẫn mê. Bệnh nhi dưới 8 tuổi có thể cần liều lượng nhiều hơn. Nên dùng liều thấp hơn đối với bệnh nhi độ 3 và 4 theo ASA.
DUY TRÌ MÊ
Không nên dùng Diprivan ở trẻ em dưới 3 tuổi.
Có thể dùng Diprivan duy trì mê bằng cách truyền liên tục hoặc tiêm nhắc lại nhiều lần để duy trì mức độ mê sâu cần thiết. Lượng thuốc cần thiết thay đổi rất nhiều giữa các bệnh nhân nhưng liều lượng trong khoảng 9-15 mg/kg/giờ thường đạt được yêu cầu kết quả gây mê tốt.
AN THẦN GÂY NGỦ TRONG PHẪU THUẬT VÀ THỦ THUẬT CHẨN ĐOÁN
Không nên dùng Diprivan cho trẻ em trong chỉ định này vì tính an toàn và hiệu quả chưa được xác lập.
GÂY NGỦ TRONG HỒI SỨC
Không nên dùng Diprivan để gây ngủ ở trẻ em vì hiệu quả và độ an toàn chưa được chứng minh. Mặc dù chưa xác lập được mối quan hệ nhân quả, đã có bác cáo tự phát về một vài trường hợp tai biến nặng (kể cả tử vong) do sử dụng thuốc không được cho phép. Đa số các trường hợp này xảy ra ở trẻ em bị nhiễm trùng đường thở đã bị gây mê với liều vượt quá liều cho phép dùng cho người lớn.
D. Cách dùng :
Diprivan có thể được truyền tĩnh mạch nguyên chất qua ống tiêm nhựa hoặc các chai dịch truyền. Khi Diprivan được dùng nguyên chất để duy trì mê, nên dùng các thiết bị như ống bơm tiêm điện hoặc bơm truyền theo thể tích để kiểm soát vận tốc truyền.
Diprivan cũng có thể được dùng pha loãng duy nhất với loại dịch truyền tĩnh mạch Dextrose 5% đựng trong các bịch nhựa PVC hoặc chai thủy tinh. Việc pha loãng, không quá 1 phần 5 (2 mg propofol/ml), phải được thực hiện trong điều kiện vô trùng ngay trước khi truyền. Hỗn hợp có tính ổn định tới 6 giờ.
Thuốc pha loãng có thể được dùng với một số kỹ thuật kiểm soát, nhưng một phương cách kiểm soát đơn độc sẽ không tránh được nguy cơ tai biến truyền quá nhiều Diprivan pha loãng. Phải thêm vào đường truyền 1 bầu chứa, máy đếm giọt hoặc máy đo thể tích. Phải lưu ý đến nguy cơ truyền không kiểm soát được khi quyết định thể tích tối đa thuốc đã pha loãng trong bầu chứa.
Diprivan có thể được tiêm truyền qua một nhánh hình chữ Y gần vùng tiêm, vào trong dịch truyền Dextrose 5%, Sodium Chloride 0,9% hay Dextrose 4% với Sodium Chloride 0,18%.
Diprivan có thể trộn trước với alfentanil dạng tiêm chứa 500 mcg/ml alfentanil (Rapifen; Janssen Pharmaceuticals Ltd.) với tỷ lệ 20:1đến 50:1v/v. Hỗn hợp thuốc nên được chuẩn bị bằng kỹ thuật vô trùng và sử dụng trong vòng 6 giờ.
Để giảm đau lúc khởi đầu tiêm, phần Diprivan 1% dùng để dẫn mê có thể được pha thêm với lignocaine dạng tiêm trong một ống tiêm nhựa với tỷ lệ 20 phần Diprivan với một phần hoặc là 0,5% hoặc là 1% lignocaine dạng tiêm ngay trước khi sử dụng.
PHA LOÃNG VÀ DÙNG KÈM VỚI CÁC THUỐC KHÁC HAY VỚI DỊCH TRUYỀN
(Xem thêm phần Thận trọng lúc dùng)
Tính tương kỵ :
Không được pha trộn Diprivan trước với các thuốc tiêm hay dịch truyền tĩnh mạch, ngoài dịch truyền Dextrose 5% trong các túi PVC hay chai dịch truyền, hoặc lignocaine dạng tiêm hay alfentanil tiêm trong xy-lanh.
Các thuốc ức chế thần kinh cơ như atracurium và mivacurium không được cho qua cùng đường truyền tĩnh mạch với Diprivan nếu không rửa sạch đường truyền.
Quá liều
Quá liều do tai biến có thể gây ức chế hô hấp và tuần hoàn. Tình trạng ức chế hô hấp phải được điều trị bằng thở máy với ôxy ; điều trị tình trạng suy tuần hoàn bằng cách cho bệnh nhân nằm đầu thấp, và trong trường hợp nặng, bằng truyền dịch và các thuốc vận mạch.
Bảo quản
Diprivan phải được bảo quản ở nhiệt độ từ 2°C tới 25°C. Không được đông lạnh.
Lắc kỹ trước khi dùng. Mọi phần thừa còn lại sau khi dùng phải được bỏ đi .