Thông số kỹ thuật của bộ sản phẩm GENOSCHOLAR.PZA-TB II
Bộ dụng cụ chứa các dung dịch / thuốc thử cần thiết cho các bước khuếch đại DNA và phát hiện DNA
Phân tích thủ công hoặc máy phân tích tự động (Multi-Blot NS-4800)
Sản phẩm GENOSCHOLAR.PZA-TB II có tốt không?
GENOSCHOLAR.PZA-TB II giúp Xét nghiệm tính nhạy cảm của thuốc đối với bệnh lao dựa trên xét nghiệm đầu dò dòng.
Genoscholar PZA TB II phát hiện vi khuẩn lao kháng pyrazinamide, dựa trên đột biến gen.
Phát hiện sự đề kháng với pyrazinamide, dựa trên đột biến gen
Chuẩn bị mẫu từ đờm hoặc nuôi cấy
Kết quả kiểm tra trong vòng 1 ngày
Sử dụng sản phẩm GENOSCHOLAR.PZA-TB II như thế nào?
Genoscholar PZA-TB II dựa trên công nghệ LiPA và phát hiện tính kháng PZA dựa trên gene đích pncA. Genoscholar PZA-TB II bao gồm Amplification solution, DNA polymerase cho quá trình khuếch đại Mycobacterium tuberculosis genomic DNA trong mẫu bệnh phẩm và màng lai PZA-TB2 (màng lai PZA-TB2 có 48 mẫu dò phủ toàn bộ các vùng của pncA, tạo độ nhạy cao để phát hiện kháng PZA), streptavidin alkaline phosphatase, substrate,…để phát hiện DNA đã khuếch đại.
DNA của vi khuẩn lao được chiết tách từ các mẫu bệnh phẩm như đờm và các chủng nuôi cấy. Mỗi mẫu DNA lại được nhân lên ở trong bước khuếch đại. Các DNA sau khi khuếch đại sẽ được lai với DNA đầu dò đã được gắn sẵn trên màng lai PZA-TB2. Sau quá trình lai các dung dịch nền và dung dịch liên kết đực thêm vào để hình thành màu sắc. Sự mất màu chính là cơ sở để phát hiện đột biến trên gen pncA của vi khuẩn lao.
Genoscholar PZA-TB – một công nghệ dựa trên lai ngược để phát hiện kháng pyrazinamide (PZA) ở bệnh lao
Nipro (Osaka, Nhật Bản) đã phát triển Genoscholar PZA-TB, một công nghệ dựa trên lai ngược để phát hiện kháng pyrazinamide (PZA) ở bệnh lao. So với MTBDRplus và MTBDRs / LPA, xét nghiệm thăm dò dòng PZA-TB của Genoscholar (LPA) không bao gồm các mẫu dò đột biến cụ thể, bởi vì đột biến kháng thuốc phổ biến trên toàn bộ gen pncA mà không có đột biến nổi trội. Thay vào đó, xét nghiệm Genoscholar PZA-TB nhắm vào đoạn 700 cặp bazơ (bp) bao gồm toàn bộ gen pncA và vùng khởi động lên đến nucleotide -18 của chủng tham chiếu H37Rv kiểu hoang dã được biết đến là có đột biến liên quan đến kháng thuốc. Phiên bản đầu tiên của thử nghiệm chứa 47 đầu dò bao gồm pncA người quảng cáo và khung đọc mở. Phiên bản thứ hai chứa 48 đầu dò. Ba trong số 48 đầu dò (pncA 16, 17 và 35) trong phiên bản thứ hai đại diện cho các đột biến im lặng được biết là dấu hiệu di truyền không liên quan đến kháng PZA: Gly60Gly (đầu dò 16), Ser65Ser (đầu dò 17) và Thr142Thr (đầu dò 35). Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) coi xét nghiệm này là thành viên đầu tiên trong nhóm các NAAT lai ngược có độ phức tạp cao và các khuyến nghị dưới đây áp dụng cho xét nghiệm này.
Khuyến nghị về việc sử dụng Genoscholar PZA-TB
Ở những người mắc bệnh lao đã được xác nhận về mặt vi khuẩn, các xét nghiệm khuếch đại axit nucleic dựa trên lai ghép ngược có độ phức tạp cao (NAATs) có thể được sử dụng trên các dòng phân lập nuôi cấy để phát hiện kháng PZA (thay vì thử nghiệm tính nhạy cảm với thuốc kiểu hình dựa trên nuôi cấy [DST]). (Khuyến nghị có điều kiện; độ chắc chắn của bằng chứng cho độ chính xác chẩn đoán rất thấp)
Không cần cân nhắc đặc biệt về phân nhóm (ví dụ như đối với trẻ em, người sống chung với HIV [PLHIV] và những người bị lao ngoài phổi), vì xét nghiệm này được khuyến nghị sử dụng trên các chủng vi khuẩn nuôi cấy.
Một số lưu ý về việc sử dụng Genoscholar PZA-TB II
Chính sách và lập kế hoạch: Tích hợp Genoscholar PZA-TB II vào các thuật toán quốc gia và bố trí vào mạng nên xem xét rằng bài kiểm tra nên được đặt tại các phòng thí nghiệm tham chiếu với cơ sở hạ tầng đầy đủ; cần có hệ thống chuyển mẫu hoạt động tốt từ các phòng thí nghiệm ngoại vi đến phòng thí nghiệm đối chứng; và những bệnh nhân bị DR-TB (tức là đã xác nhận đề kháng với rifampicin [RIF] hoặc isoniazid [INH]) có thể được ưu tiên xét nghiệm.
Thiết bị: Các NAAT lai phức tạp cao đòi hỏi nhiều thiết bị để xử lý phân tử (xem Thiết bị, vật tư và thuốc thử ở trên). Các phòng thí nghiệm năng suất cao nên xem xét việc mua sắm thiết bị MULTIBLOT NS-4800 tự động của Nipro, có thể tăng khả năng thử nghiệm từ 12 lên 48 mẫu mỗi lần chạy.
Thiết kế phòng thí nghiệm và cơ sở hạ tầng: Các biện pháp phòng ngừa để giảm nguy cơ lây nhiễm chéo là rất quan trọng. Theo yêu cầu tối thiểu, ba phòng riêng biệt cho các bước phân tử khác nhau phải được thiết lập – một phòng để tách chiết DNA, một phòng dành cho quy trình tiền khuếch đại và một phòng dành cho quy trình khuếch đại và sau khuếch đại. Điều quan trọng để đạt được kết quả như ý là hạn chế tiếp cận, chú ý đến hướng của quy trình làm việc và các quy trình làm sạch được tuân thủ một cách tỉ mỉ.
Quy trình: Vì đột biến chỉ được suy ra khi không có mẫu dò, sự hiện diện của đột biến không liên quan đến tính kháng có thể dẫn đến báo cáo về tình trạng kháng thuốc trong trường hợp không có đột biến liên quan đến kháng (kháng giả). Hạn chế này có thể được khắc phục bằng cách giải trình tự gen pncA , đặc biệt nếu xác suất trước đó thấp (ví dụ như trường hợp lao nhạy cảm với RIF) và giải thích kết quả dựa trên danh mục đột biến mới nhất của WHO.
Đảm bảo chất lượng: NAATs lai ngược có độ phức tạp cao đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt một số quy trình để giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm; do đó, việc sử dụng các biện pháp kiểm soát tích cực và tiêu cực thích hợp, giám sát kết quả dựa trên kết quả mong đợi để phát hiện kịp thời các xu hướng âm tính giả và dương tính giả, và tất cả đều phải quan sát sự tham gia thường xuyên vào các chương trình đảm bảo chất lượng bên ngoài. Việc xác nhận phương pháp mới nên sử dụng các chủng Mycobacterium tuberculosis nhạy cảm với PZA và kháng PZA, có đặc điểm tốt . Các chủng cách ly kháng PZA nên được chọn để đảm bảo một loạt các đột biến liên quan đến điện trở được trình bày trong bảng xác nhận để đảm bảo có thể đạt được độ chính xác và độ chính xác của việc phát hiện kháng liên quan đến các đặc tính hiệu suất do nhà sản xuất báo cáo trên các cấu hình điện trở khác nhau.
Đào tạo và đánh giá năng lực: Cần có nhân viên được đào tạo tốt để thực hiện một quy trình phức tạp bao gồm một số bước thủ công, ủ đúng thời gian, dùng pipet chính xác và cẩn thận để tránh lây nhiễm chéo. Ngoài ra, cần phải có kinh nghiệm và đào tạo đặc biệt để đọc các mẫu dải trên dải và giải thích kết quả phù hợp.