Điều trị những bệnh nhân bị viêm gan B mạn tính.
GlaxoSmithKline Pharmaceuticals S.A
Ba Lan
Viên nén bao phim
Hộp 2 vỉ x 14 viên
Có
36 tháng kể từ ngày sản xuất.
VN3-31-18
Hoạt chất: Mỗi viên nén bao phim chứa 100mg lamivudin.
Tá dược: Celulose vi tinh thể, natri starch glycolat tuýp A, magnesi stearat, Butterscotch YS-1R-17307-A (hypromelose, titan dioxyd, macrogol 400, polysorbat 80, oxyd sắt tổng hợp màu vàng và đỏ).
ZEFFIX được chỉ định điều trị những bệnh nhân bị viêm gan B mạn tính và có bằng chứng nhân lên của virus viêm gan B (HBV).
Có thể uống ZEFFIX trong hoặc ngoài bữa ăn.
Nên giám sát sự tuân thủ của bệnh nhân khi điều trị bằng ZEFFIX.
Thời gian điều trị
Khoảng thời gian điều trị tối ưu chưa được biết.
- Bệnh nhân viêm gan B mạn tính có HBeAg dương tính (CHB) không bị xơ gan, nên điều trị ít nhất từ 6 tới 12 tháng sau khi có sự chuyển đổi huyết thanh HbeAg (mất HBeAg và HBV DNA cùng với việc phát hiện HBeAb) được khẳng định, để giới hạn nguy cơ tái phát của virus hoặc tới khi có sự chuyển đổi huyết thanh HBsAg hoặc điều trị mất hiệu quả (xem phần Cảnh báo và Thận trọng). Mức huyết thanh ALT và HBV DNA nên được theo dõi thường xuyên sau khi ngừng điều trị để phát hiện bất kỳ sự tái phát virus muộn nào.
- Bệnh nhân viêm gan B mạn tính có HBeAg âm tính (đột biến tiền trung tâm) không bị xơ gan, nên điều trị ít nhất cho tới khi có sự chuyển đổi huyết thanh hoặc có bằng chứng điều trị mất hiệu quả. Với điều trị kéo dài, việc thường xuyên đánh giá lại được khuyến cáo để khẳng định rằng việc tiếp tục phương pháp điều trị đã chọn vẫn thích hợp với bệnh nhân.
- Đối với bệnh nhân bệnh gan mất bù hoặc xơ gan và bệnh nhân cấy ghép gan, không khuyến cáo ngừng điều trị.
ZEFFIX nên được sử dụng theo các khuyến cáo chính thức.
Viên nén ZEFFIX100mg không phù hợp để sử dụng cho trẻ em và những bệnh nhân không thích hợp dùng dạng viên nén.
Các đối tượng dân số
Người lớn và thanh thiếu niên từ 12 tuổi trở lên
Liều khuyến cáo của ZEFFIX là 100mg x 1 lần/ngày.
Bệnh nhân suy thận
Nồng độ lamivudin trong huyết thanh (AUC) tăng lên ở những bệnh nhân suy thận từ vừa đến nặng do giảm thanh thải ở thận. Do đó nên giảm liều ở những bệnh nhân có độ thanh thải creatinine từ 30 ml/phút đến 50 ml/phút. Viên nén Zeffix 100mg không phù hợp để sử dụng cho những bệnh nhân cần sự chỉnh liều.
Bệnh nhân suy gan
Dữ liệu thu được ở bệnh nhân suy gan, bao gồm những bệnh nhân có bệnh gan giai đoạn cuối đang chờ ghép gan, cho thấy dược động học của ZEFFIX không bị ảnh hưởng đáng kể bởi rối loạn chức năng gan.
Dựa trên những dữ liệu này, không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân suy gan trừ khi kèm theo suy thận.
Chống chỉ định dùng ZEFFIX viên nén cho bệnh nhân được biết quá mẫn với ZEFFIX hoặc với bất kỳ thành phần nào của thuốc, bệnh nhân bị bệnh thận nặng.
Viên nén bao phim.
In vivo, ZEFFIX có tác dụng kháng virus mạnh, nhanh chóng ức chế sự sao chép của HBV sau khi khởi đầu điều trị, dẫn đến ức chế HBV liên tục, bình thường hóa aminotransferase trong huyết thanh, giảm đáng kể hoạt động viêm hoại tử tại gan, giảm tiến triển xơ hóa và tăng chuyển đổi huyết thanh HBeAg. Trong các nghiên cứu lâm sàng, ZEFFIX đã được sử dụng cho những bệnh nhân viêm gan B mạn tính cho tới 4 năm. Các kết quả thu được là tương tự giữa các bệnh nhân thuộc các dân tộc khác nhau.
Trong những nghiên cứu có đối chứng được tiến hành trên 800 bệnh nhân có HBeAg dương tính, điều trị bằng ZEFFIX trong một năm đã ức chế đáng kể sự sao chép của DNA HBV (34 - 57% bệnh nhân), bình thường hóa mức ALT (40 - 72% bệnh nhân), tăng chuyển đổi huyết thanh HBeAg (mất HBeAg và DNA HBV cùng với sự xuất hiện HBeAb ở 16 - 18% bệnh nhân), cải thiện mô (38 - 52% bệnh nhân) và làm giảm tiến triển xơ hóa (3 - 17% bệnh nhân) và sự tiến triển đến xơ gan (1,8% bệnh nhân).
Chuyển đổi huyết thanh HBeAg đã được duy trì ở 81% (34/42) bệnh nhân sau khi ngừng thuốc được theo dõi trong khoảng 2 năm. Thêm vào đó, chuyển đổi huyết thanh HBsAg cũng đạt được trên 21% (9/42) bệnh nhân.
Trong những nghiên cứu có đối chứng tiến hành trong 1 năm, những bệnh nhân HBeAg dương tính chưa từng có chuyển đổi huyết thanh HBeAg và sau đó được điều trị bằng ZEFFIX trong 2 năm, có 77/128 (60%) bệnh nhân cải thiện tình trạng viêm gan và 26/51 (51%) cải thiện quá trình xơ hóa.
Trong một nghiên cứu bổ sung, sau 4 năm điều trị bằng ZEFFIX, chuyển đổi huyết thanh HBeAg (mất HBeAg và xuất hiện HBeAb) đã thấy ở 47% (27/58) bệnh nhân (59% [24/41] bệnh nhân có ALT bất thường lúc ban đầu).
Ở những bệnh nhân không có chuyển đổi huyết thanh HBeAg trong quá trình điều trị, ngừng dùng ZEFFIX dẫn tới HBV sao chép trở lại, cả HBV DNA và aminotransferase huyết thanh trở về giá trị trước khi điều trị trong vòng 2 - 6 tháng.
Ở những bệnh nhân được theo dõi đến 16 tuần sau khi ngưng điều trị, sự tăng ALT sau điều trị được quan sát thấy thường xuyên hơn ở những bệnh nhân dùng ZEFFIX so với những bệnh nhân dùng giả dược. Bảng 2 trình bày sự so sánh về mức độ tăng ALT giữa tuần 52 và tuần 68 ở những bệnh nhân ngừng dùng ZEFFIX ở tuần 52 và những bệnh nhân dùng giả dược trong suốt liệu trình điều trị trong cùng các nghiên cứu.
Bảng 2: Tăng ALT sau điều trị ở 2 nghiên cứu có đối chứng giả dược ở người lớn được theo dõi trong giai đọan không điều trị | ||
Giá trị bất thường |
Bệnh nhân tăng ALT/Bệnh nhân theo dõi # |
|
ZEFFIX |
Placebo |
|
ALT ≥ 2 x giá trị ban đầu |
37/137 (27%) |
22/116 (19%) |
ALT ≥ 3 x giá trị ban đầu * |
29/137 (21%) |
9/116 (8%) |
ALT ≥ 2 x giá trị ban đầu và ALT tuyệt đối > 500 IU/L |
21/137 (15%) |
8/116 (7%) |
ALT ≥ 2 x giá trị ban đầu; và bilirubin > 2 x ULN và ≥ 2 x giá trị ban đầu |
1/137 (0,7%) |
1/116 (0,9%) |
# Mỗi bệnh nhân có thể được xuất hiện trong 1 hoặc nhiều nhóm.
* Tương đương với độc tính mức độ 3 theo phân loại đã được điều chỉnh của WHO.
ULN = giới hạn trên của mức bình thường.
Trong một nghiên cứu có đối chứng với giả dược ở 286 bệnh nhân viêm gan B tuổi từ 2 đến 17, những bệnh nhân được điều trị bằng ZEFFIX trong một năm đã có đáp ứng virus hoàn toàn tốt hơn đáng kể (mất HBeAg và DNA HBV) so với những bệnh nhân dùng giả dược (23% [44/191] so với 13% [12/95]). Bình thường hóa ALT trong huyết thanh thường gặp hơn ở những bệnh nhân điều trị bằng ZEFFIX so với điều trị bằng giả dược (55% [100/183] so với 13% [11/88]).
Trong một nghiên cứu tiếp nối, phân tầng tiến hành trong 6 tháng, đáp ứng virus hoàn toàn đã được duy trì ở 83% [33/40] bệnh nhân, những người đã đáp ứng sau 1 năm điều trị bằng ZEFFIX và sau đó ngừng điều trị. Những bệnh nhân không đáp ứng sau 1 năm điều trị bằng ZEFFIX được điều trị thêm 6 tháng nữa, kết quả là có thêm 10% (12/123) bệnh nhân đạt được đáp ứng virus và đáp ứng virus hoàn toàn tích lũy là 28% (45/163) trong vòng 18 tháng.
Đã xác định được những phân nhóm HBV giảm nhạy cảm với ZEFFIX in vitro. Những biến thể HBV này (HBV biến thể YMDD) cũng được phát hiện ở bệnh nhân viêm gan B mà có sự quay trở lại của HBV DNA huyết thanh ở mức có thể phát hiện được trong thời gian điều trị bằng ZEFFIX. Tỷ lệ mắc HBV biến thể YMDD (xem phần Cảnh báo và Thận trọng), được phát hiện bằng phản ứng chuỗi polymerase, tăng lên với thời gian điều trị; 20% sau 1 năm, 53% sau 3 năm, 70% sau 4 năm và có thể cao hơn ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch.
Mặc dù có xuất hiện HBV biến thể YMDD, bệnh nhân được điều trị trong 1 năm có nồng độ HBV DNA và ALT trong huyết thanh thấp hơn đáng kể, mô học gan cũng cải thiện so với bệnh nhân dùng giả dược. Sau hai năm điều trị bằng ZEFFIX, phần lớn bệnh nhân có HBV biến thể YMDD vẫn duy trì được nồng độ HBV DNA và ALT trong huyết thanh thấp hơn giá trị trước điều trị và một phần bệnh nhân có chuyển đổi huyết thanh HBeAg. Các tác dụng phụ là tương tự giữa những bệnh nhân có và không có HBV biến thể YMDD.
Sau khi xuất hiện HBV biến thể YMDD, việc ngừng ZEFFIX sẽ làm tái xuất hiện HBV thể hoang dại nhạy cảm với ZEFFIX (xem phần Cảnh báo và Thận trọng). Do đó, mặc dù có sự phát triển của HBV biến thể YMDD, việc tiếp tục điều trị bằng ZEFFIX sẽ ức chế phần HBV thể hoang dại còn lại và có thể tiếp tục giúp ích cho những bệnh nhân này. HBV biến thể YMDD có vẻ như ít sao chép hơn trên cả in vitro và in vivo và do đó có thể có ít độc lực hơn so với HBV thể hoang dại.
Ở những bệnh nhân viêm gan B mạn tính HBeAg âm tính, hiệu quả điều trị bằng ZEFFIX là tương tự như những bệnh nhân nhiễm HBV thể hoang dại (ví dụ, 71% bệnh nhân có ức chế DNA HBV, 67% với ALT về mức bình thường và 38% cải thiện điểm HAI Knodell sau một năm điều trị). Nếu ngừng dùng ZEFFIX sau 1 năm điều trị thì phần lớn bệnh nhân viêm gan B mạn tính có HBeAg âm tính sẽ xuất hiện trở lại sự nhân lên của virus. Các số liệu, mặc dù còn giới hạn, cho thấy rằng điều trị kéo dài bằng ZEFFIX (2 năm) sẽ duy trì sự ức chế DNA HBV và mức độ bình thường của ALT ở nhóm bệnh nhân này. Tỷ lệ xuất hiện các tác dụng phụ trầm trọng tại bất kỳ thời điểm nào trong và sau khi điều trị là thấp và tương tự như những bệnh nhân viêm gan B mạn tính với HBeAg âm tính có hoặc không có HBV biến thể YMDD.
Trong các nghiên cứu không đối chứng ở những bệnh nhân ghép gan được điều trị bằng ZEFFIX trước và trong thời gian ghép gan, đã thấy hiệu quả ức chế DNA HBV và ALT về mức bình thường. Khi tiếp tục điều trị bằng ZEFFIX sau ghép gan đã thấy giảm tái nhiễm HBV mảnh ghép, tăng tỷ lệ mất HBsAg và tỷ lệ sống 1 năm là 76 - 100%. Các nghiên cứu này không được kiểm chứng với giả dược do điều này là không phù hợp ở những bệnh nhân mắc bệnh gan mất bù.
Như dự đoán, do sự ức chế miễn dịch đồng thời, tỷ lệ xuất hiện HBV biến thể YMDD sau 52 tuần điều trị là cao hơn (36% - 64%) ở những bệnh nhân ghép gan so với bệnh nhân viêm gan B mạn tính có khả năng đáp ứng miễn dịch đầy đủ (14 - 32%). Tuy nhiên, các nghiên cứu cung cấp bằng chứng rằng sự xuất hiện của biến thể YMDD là không liên quan một cách nhất quán đến tiến triển bệnh gan và rằng đa phần bệnh nhân vẫn tiếp tục có lợi khi điều trị liên tục bằng ZEFFIX.
Những nghiên cứu về đơn trị liệu bằng ZEFFIX so với alpha-interferon dùng đơn trị liệu hoặc phối hợp trong điều trị những bệnh nhân viêm gan B mạn tính cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về đáp ứng mô học hoặc tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh HBsAg giữa các nhóm điều trị. Điều trị bằng ZEFFIX có tính an toàn cao hơn so với những trị liệu có dùng alpha-interferon.
Không có dữ liệu lâm sàng về hiệu quả của ZEFFIX khi dùng cho những bệnh nhân đồng nhiễm viêm gan Delta.
APR đã nhận được báo cáo từ hơn 11.000 ca phơi nhiễm với lamivudin trong thai kỳ sinh ra con sống, dưới 1% trong số đó là các bệnh nhân nhiễm HBV. Trong số này có hơn 4.500 ca phơi nhiễm trong 3 tháng đầu thai kỳ, hơn 7.200 ca phơi nhiễm trong 3 tháng giữa/cuối thai kỳ và bao gồm 143 và 207 ca dị tật bẩm sinh nghiêm trọng tương ứng. Tỷ lệ (95% Cl) dị tật trong 3 tháng đầu là 3,1% (2,6%; 3,7%) và trong ba tháng thứ hai/thứ ba là 2,9% (2,5; 3,3%). Trong những phụ nữ mang thai ở quần thể tham chiếu, tỷ lệ nền của dị tật bẩm sinh là 2,7%.