- Mỗi liều tiêm có chứa hoạt chất: Leuprorelin acetate: 3,75 mg
- Tá dược: Poly (D-L lactic acid), Mannitol (E421), Sterile Solvent, Carmellose sodium, Mannitol (E421), Polysorbate 80, Acetic acid, glacial, Water for Injections
Ung thư tuyến tiền liệt
Hỗn dịch tác dụng dài Leuprorelin Acetate được chỉ định để điều trị làm giảm sự tiến triển của ung thư tuyến tiền liệt. Dùng điều trị thay thế khi chống chỉ định hoặc không dùng được thủ thuật cắt bỏ tinh hoàn hay estrogen cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Trong các thử nghiệm lâm sàng, an toàn và hiệu lực của hỗn dịch tác dụng dài Leuprorelin Acetate không khác với độ an toàn và hiệu lực của Leuprorelin Acetate tiêm dưới da hàng ngày.
Lạc nội mạc tử cung
Hỗn dịch tác dụng dài Leuprorelin Acetate được chỉ định để điều trị lạc nội mạc tử cung trong thời gian 6 tháng. Nó có thể được dùng đơn độc hoặc dùng bổ trợ cho phẫu thuật.
U xơ tử cung
Hỗn dịch tác dụng dài Leuprorelin Acetate được chỉ định để điều trị u cơ trơn tử cung (u xơ tử cung) trong thời gian lên tới 6 tháng. Có thể dùng thuốc trước phẫu thuật cắt bỏ tử cung hoặc cắt bỏ u cơ, hay để giảm các triệu chứng của bệnh ở phụ nữ thời kỳ mãn kinh không muốn phải phẫu thuật.
Ung thư vú
Hỗn dịch tác dụng dài Leuprorelin Acetate được chỉ định để điều trị ung thư vú ở phụ nữ tiền mãn kinh khi cần dùng liệu pháp hormone.
Liều dùng
- Liều khuyến cáo là 3,75 mg mỗi 1 tháng một lần hoặc 11,25 mg mỗi 3 tháng một lần, tiêm dưới da hoặc tiêm bắp.
- Các vị trí tiêm cần phải thay đổi ở bệnh nhân.
- Đối với chỉ định lạc nội mạc tử cung và trước phẫu thuật u xơ tử cung, thời gian điều trị nên được giới hạn đến 6 tháng.
- Ở những bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt được điều trị bằng các chất tương tự GnRH, quá trình điều trị thường tiếp tục đến giai đoạn kháng cắt tinh hoàn của ung thư tuyến tiền liệt. Các bằng chứng nên được tham khảo từ các hướng dẫn liên quan.
Chuẩn bị cho sử dụng
Leuprorelin Acetate chứa sẵn trong bơm tiêm 2 ngăn. Để sử dụng tối ưu bơm tiêm 2 ngăn, đọc và làm theo hướng dẫn sau:
1. Để chuẩn bị tiêm, xoay pít tông trắng vào đầu dưới của bơm tiêm cho đến khi đầu dưới bắt đầu quay
2.Giữ bơm tiêm thẳng đứng. Giải phóng phần dung môi bằng cách đẩy nhẹ pit-tông (6-8 giây) cho đến khi đầu trên pit-tông gặp vạch xanh tại phần giữa khoang bơm tiêm.
3. Giữ bơm tiêm thẳng đứng. Lắc nhẹ nhàng cẩn thận để tạo một hỗn dịch đồng nhất. Hỗn dịch thu được sẽ giống như sữa.
4. Giữ bơm tiêm thẳng đứng. Dùng tay còn lại lấy nắp kim tiêm ra (không vặn nắp)
5. Giữ bơm tiêm thẳng đứng. Đẩy nhẹ pit-tông để đẩy khí trong bơm tiêm ra.
6. Tiêm dưới da hoặc tiêm bắp toàn bộ phần thuốc trong bơm tiêm ngay tại thời điểm thu được hỗn dịch. Hỗn dịch lắng rất nhanh. ngay sau khi pha chế. Vì vậy leuprorelin acetate nên được pha trộn và sử dụng ngay lập tức.
Lưu ý: Nếu lỡ chọc kim vào mạch máu, có thể nhìn thấy máu bị hút vào ngay dưới bầu kim tiêm
Lucrin PDS Depot 3,75:
- Quá mẫn với hoạt chất leuprorelin acetate hoặc các nonapeptides hoặc bất kỳ thành phần tá dược nào của thuốc.
- Lucrin PDS Depot không chỉ định dùng điều trị cho bệnh nhân có khối u không nhạy cảm hormone, hoặc sử dụng sau khi cắt bỏ tinh hoàn.
- Phụ nữ mang thai hoặc có khả năng mang thai.
- Phụ nữ cho con bú.
- Bệnh nhân có khối u nhạy cảm hormone, hoặc để sử dụng sau thủ thuật cắt bỏ tinh hoàn
- Trẻ em bị bệnh hoặc điều trị mà có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và/hoặc hoạt động của trục tuyến yên-tuyến sinh dục;
- Bé gái có xương trưởng thành trên 12 năm;
- Bé trai có xương trưởng thành trên 13 năm;
- Bệnh nhân có khối u não tiến triển.
Cảnh báo
Nguy cơ trầm cảm có khả năng nghiêm trọng có thể tăng lên ở những bệnh nhân được điều trị với thuốc chủ vận GnRH, như leuprorelin acetate. Bệnh nhân phải được thông báo về điều này; nếu có triệu chứng, nên khởi đầu các điều trị thích hợp.
Chứng co giật
Theo các báo cáo sau lưu hành, chứng co giật đã được quan sát thấy ở bệnh nhân được điều trị với leuprorelin acetate, dù có hoặc không có tiền sử của các yếu tố ảnh hưởng. Chứng co giật cần được điều trị theo thực hành lâm sàng hiện tại.
Ở phụ nữ
- Điều trị bằng Lucrin PDS Depot nên diễn ra dưới sự giám sát chuyên biệt. Trước khi bắt đầu điều trị, cần tiến hành kiểm tra để xác định xem bệnh nhân có thai hay không. Nếu có bất kỳ nghi ngờ, nên thực hiện xét nghiệm thai kỳ. Việc sử dụng thuốc tránh thai đường uống và các biện pháp tránh thai nội tiết tố khác nên ngưng trước khi bắt đầu điều trị với Lucrin PDS Depot. Phương pháp thay thế (không chứa hormone) để tránh thai nên được sử dụng trong suốt quá trình điều trị. Nên ngưng thuốc ngay sau khi một bệnh nhân được phát hiện có thai. Trong giai đoạn đầu điều trị, có thể có một sự gia tăng sự than phiền, triệu chứng, như là kết quả của một sự gia tăng tạm thời các hormone giới tính. Chúng sẽ biến mất khi tiếp tục điều trị.
- Mất khối lượng xương được dự kiến trong suốt thời kỳ mãn kinh tự nhiên. Theo đó, điều này cũng có thể xảy ra trong trường hợp của tình trạng thiếu hụt estrogen cảm ứng. Ở những bệnh nhân nhận leuprorelin để điều trị lạc nội mạc tử cung, việc bổ sung các liệu pháp thay thế honnon đã được chứng minh là làm giảm sự mất mật độ chất khoáng của xương và các triệu chứng vận mạch. Mất khối lượng xương đã được chứng minh là có thể hồi phục sau khi hoàn tất một đợt điều trị 6 tháng. Nguyên nhân chảy máu âm đạo bất thường nên được xác định trước khi bắt đầu điều trị với Lucrin PDS Depot.
Ở đàn ông
- Việc điều trị cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt nên được giám sát đầy đủ bởi một bác sĩ quen thuộc với liệu pháp hormone. Trong những tuần đầu tiên có thể có gia tăng than phiền, các triệu chứng xấu đi như là kết quả của sự gia tăng ban đầu nồng độ testosterone trong huyết thanh. Một số ít bệnh nhân có thể tăng tạm thời đau xương mà có thể được điều trị theo triệu chứng. Cũng như các chất chủ vận GnRH khác, các trường hợp riêng biệt tắc nghẽn niệu và chèn ép tủy sống đã được quan sát, có thể góp phần gây tê liệt kèm theo hoặc không có biến chứng gây tử vong.
- Bệnh nhân có tắc nghẽn đường tiết niệu do di căn nên được theo dõi chặt chẽ trong suốt những tuần đầu tiên. Ở những bệnh nhân này, thủ thuật cắt bỏ tinh hoàn và điều trị bằng estrogen là an toàn hơn. Bệnh nhân có di căn ở cột đốt sống nên được theo dõi chặt chẽ khi bắt đầu điều trị với Lucrin PDS Depot (xem phần Tác dụng không mong muốn). Trong giai đoạn này, có thể cân nhắc liệu pháp điều trị kết hợp tạm thời với một kháng androgen, dựa trên cơ sở các hình ảnh lâm sàng.
- Ở những bệnh nhân mà điều trị bằng Lucrin PDS Depot có thể liên quan đến nguy cơ nhất định, có thể cân nhắc bắt đầu điều trị với liều lượng Lucrin mỗi ngày một lần trong 2 tuần thay vì Lucrin PDS Depot 1 tháng 3,75 mg hay 3 tháng 11,25 mg. Nếu liều đơn mỗi ngày được dung nạp tốt, bệnh nhân có thể được chuyển sang Lucrin PDS Depot 1 tháng 3,75 mg hay 3 tháng 11,25 mg.
- Hiệu quả của leuprorelin trên tổn thương xương có thể được đánh giá bằng phương pháp chụp cắt lớp xương.
- Tăng đường huyết và tăng nguy cơ phát triển bệnh tiểu đường đã được báo cáo ở những người đàn ông dùng chất chủ vận GnRH (hormone giải phóng gonadotrophin). Tăng đường huyết có thể là dấu hiệu của sự phát triển bệnh tiểu đường hoặc suy giảm việc kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường. Giám sát glucose trong máu và/hoặc HbAlc định kỳ ở những bệnh nhân dùng chất chủ vận GnRH và tuân theo tiêu chuẩn thực hành trong điều trị tăng đường huyết hay bệnh tiểu đường.
- Sự tăng nguy cơ phát triển của nhồi máu cơ tim, đột tử, và đột quỵ đã được báo cáo kết hợp với việc sử dụng các chất chủ vận GnRH ở nam giới. Dựa trên tỷ số nguy cơ đã được báo cáo, nguy cơ đã được chứng minh là thấp. Nếu quyết định thực hiện điều trị bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt, nguy cơ này cần được đánh giá cẩn thận cùng với các yếu tố nguy cơ tim mạch. Bệnh nhân dùng các chất chủ vận GnRH cần được theo dõi các triệu chứng và dấu hiệu gợi ý về sự phát triển của rối loạn tim mạch và cần được điều trị theo các thực hành lâm sàng hiện tại.
- Liệu pháp ngăn chặn sản xuất androgen có thể gây kéo dài khoảng QT. Bác sĩ nên cân nhắc lợi ích rủi ro, bao gồm cả nguy cơ xoắn đỉnh, trước khi bắt đầu Lucrin ở những bệnh nhân có tiền sử hoặc các yếu tố nguy cơ cho kéo dài khoảng QT và ở những bệnh nhân đang dùng thuốc đồng thời có thể kéo dài khoảng QT (xem mục Tương tác).
Xét nghiệm cận lâm sàng
Đáp ứng điều trị với leuprorelin có thể được theo dõi bằng cách đo nồng độ trong huyết thanh của testosterone, kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt và phosphatase acid. Nồng độ testosterone tăng như là kết quả của liều ban đầu, sau đó giảm dần trong khoảng thời gian hai tuần. Nồng độ tương đương với những người đã cắt tinh hoàn (0,25 ng/mL) đạt được sau 2 đến 4 tuần, và được duy trì trong suốt thời gian điều trị với Lucrin PDS Depot. Một sự gia tăng thoáng qua nồng độ phosphatase acid đã được quan sát thấy trong giai đoạn sớm của điều trị. Các nồng độ tăng cao này thường giảm xuống hơn 25% trong lần thứ hai đến thứ tư tuần điều trị.
Tác dụng đối với khả năng lái xe và vận hành máy móc
Không có dấu hiệu cho thấy Lucrin PDS Depot ảnh hưởng xấu đến khả năng lái xe và vận hành máy móc.
Mang thai
Lucrin PDS Depot chống chỉ định sử dụng trong thai kỳ. Không đủ dữ liệu về việc sử dụng leuproreline ở phụ nữ mang thai để đánh giá sự nguy hại. Các kinh nghiệm hạn chế hiện tại với việc sử dụng leuprorelin trong khi mang thai không cho thấy sự tăng nguy cơ dị dạng bẩm sinh. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy có độc tính lên quá trình sinh sản như là kết quả của hoạt tính dược lực (xem phần Dữ liệu an toàn tiền lâm sàng). Những nguy cơ tiềm ẩn trên người vẫn chưa biết. Vì vậy, việc mang thai nên được loại trừ trước khi bắt đầu điều trị với Lucrin PDS Depot.
Cho con bú
Lucrin PDS Depot chống chỉ định để sử dụng trong thời kỳ cho con bú. Chưa biết liệu leuprorelin có bài tiết vào sữa mẹ hay không. Vì vậy, việc cho con bú nên dừng lại trước khi bắt đầu điều trị với Lucrin PDS Depot, và không nên được cho con bú trong khi điều trị với Lucrin PDS Depot.
Khả năng sinh sản
Lucrin PDS Depot có thể ảnh hưởng bất lợi lên khả năng sinh sản của nam và nữ trên quan điểm về hiệu quả dược học của leuprorelin trên trục tuyến yên-tuyến sinh dục (xem phần Dược lực học) và dựa trên những phát hiện trên động vật với dạng bào chế mẫu cấy phóng thích chậm (depot). Nghiên cứu lâm sàng và dược học ở phụ nữ với leuprorelin acetate và các chất đồng đẳng tương tự đã cho thấy sự hồi phục hoàn toàn của việc ức chế khả năng sinh sản khi ngưng sử dụng thuốc sau khi dùng liên tục trong thời gian lên đến 24 tuần. Không có dữ liệu ở người liên quan đến khả năng sinh sản của nam giới sau khi điều trị với leuprorelin acetate.
Không có dấu hiệu cho thấy Lucrin PDS Depot ảnh hưởng xấu đến khả năng lái xe và vận hành máy móc.
Nôn, buồn nôn, phù.
Nam giới:
Giảm kích thước tinh hoàn, nóng đỏ bừng/đổ mồ hôi, liệt dương, đau toàn thân, khó thở, suy nhược.
Nữ giới:
Nóng đỏ bừng/đổ mồ hôi, những thay đổi của vú, nhạy cảm/đau, giảm khả năng tình dục, những tác dụng giống androgen như nam giới hóa, trứng cá, tăng tiết bã nhờn, rậm lông, thay đổi giọng nói, đau cơ, rối loạn xương khớp; trầm cảm, tâm tính dễ thay đổi, đau đầu, chóng mặt, mất ngủ/rối loạn giấc ngủ, đau toàn thân, rối loạn thần kinh, cơ, hồi hộp, dị cảm; phản ứng da, viêm âm đạo; suy nhược, tăng/giảm cân.
- Không có nghiên cứu dược động học nào về tương tác thuốc-thuốc được tiến hành với hỗn dịch tác dụng dài Leuprorelin Acetate. Tuy nhiên, do Leuprorelin Acetate là một peptide được giáng hóa chủ yếu bởi các enzym peptidase mà không phải qua các enzym cytochrome P-450 như đã thấy trong những nghiên cứu đặc biệt, và do chỉ có khoảng 46% thuốc gắn kết với protein huyết tương, những tương tác thuốc hầu như không xảy ra.
- Ung thư tuyến tiền liệt: Xem phần tác động lên khoảng QT/QTC trong mục Cảnh báo.
- Tương tác thuốc/xét nghiệm cận lâm sàng: Sử dụng hỗn dịch tác dụng dài Leuprorelin Acetate cho phụ nữ gây ức chế hệ thống tuyến yên- sinh dục. Chức năng bình thường sẽ khôi phục lại trong vòng 3 tháng sau khi ngừng sử dụng hỗn dịch tác dụng dài Leuprorelin Acetate. Do đó, những xét nghiệm chẩn đoán về gonadotropin tuyến yên và chức năng sinh dục thực hiện trong thời gian điều trị hoặc 3 tháng sau khi ngừng dùng thuốc có thể bị sai lệch.
Dược lực học:
- Phân loại nhóm trị liệu: chất tương tự hormone giải phóng gonadotropin.
- Hoạt chất của Lucrin PDS Depot là leuprorelin, một nonapeptide tổng hợp. Nonapeptide này là một chất tương tự của LH-RH (gonadorelin, hoặc hormone giải phóng gonadotropin), một hormone tự nhiên được sản xuất tại vùng dưới đồi. Leuprorelin có thể ức chế sự tăng trưởng của một số khối u phụ thuộc hormone; nó cũng có thể gây teo cơ quan sinh sản. Như vậy, không có thông tin liên quan đến sự hình thành các kháng thể sau quá trình điều trị dài ngày.
- Leuprorelin có tác dụng kích thích trên sự bài tiết hormone luteinising (LH) và hormone kích thích nang (FSH) do tuyến yên. Kết quả là, sẽ có sự gia tăng ban đầu nồng độ LH và FSH, dẫn đến sự gia tăng thoáng qua nồng độ estrogen ở phụ nữ tiền mãn kinh. Tuy nhiên, tiếp tục sử dụng dẫn đến giảm nồng độ giảm LH, FSH và oestrogen, khiến nồng độ estrogen của phụ nữ tiền mãn kinh sụt giảm xuống nồng độ ở những người phụ nữ sau mãn kinh. Những thay đổi hormone này xảy ra trong vòng một tháng và được duy trì trong toàn bộ giai đoạn điều trị ở liều khuyến cáo.
- Cũng như phụ nữ, việc sử dụng leuprorelin ở nam giới gây ra một sự gia tăng thoáng qua nồng độ LH và FSH, qua đó thúc đẩy sự tiết testosterone. Tuy nhiên, tiếp tục sử dụng Lucrin PDS Depot dẫn đến giảm nồng độ LH và FSH, mà cắt giảm sự sản xuất testosterone đến nồng độ cắt tinh hoàn. Các tác dụng này xảy ra trong vòng 2 đến 4 tuần sau khi bắt đầu điều trị và được duy trì trong suốt quá trình điều trị.
- Như vậy, leuprorelin có tác dụng đặc hiệu trên gonadotrophin tuyến yên và cơ quan sinh sản của con người. Đặc biệt, độ đặc hiệu này làm giảm nguy cơ tác dụng phụ tim mạch. Những phản ứng này có liên quan đến việc sử dụng của oestrogen, ví dụ như diethylstilbestrol. Các nguy cơ của các tác dụng không mong muốn liên quan khác, chẳng hạn như chứng to vú ở nam và rối loạn gan và túi mật, huyết khối nghẽn mạch và phù nề, cũng giảm theo. Việc tạm ngưng điều trị dẫn đến sự phục hồi hoạt động bình thường của hệ thống tuyến yên-tuyến sinh dục, cho thấy rằng việc điều trị có thể đảo ngược. Lucrin PDS Depot cung cấp một liệu pháp thay thế cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di căn, những người mà việc sử dụng oestrogen sẽ dẫn đến nguy cơ tăng cao.
- Ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn kháng cắt tinh hoàn, các nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra lợi ích của việc bổ sung các tác nhân như chất ức chế trục androgen abiraterone acetate và enzalutamide, các taxanes docetaxel và cabazitaxel và tác nhân phóng xạ Ra-223 vào chất chủ vận GnRH như leuprorelin.
Cơ chế tác dụng:
- Khi dùng thuốc tương tự GnRH theo kiểu bơm ngắt quãng theo nhịp, thuốc sẽ kích thích tiết gonadotropin, trái lại, khi dùng theo kiểu bơm liên tục, thuốc sẽ ức chế tiết gonadotropin.
- Khi bắt đầu dùng ở nam giới, thuốc tương tự GnRH (thí dụ goserelin) gây tăng nồng độ testosteron trong huyết thanh. Khi điều trị ung thư tuyến tiền liệt, cần ngăn chặn sự tăng testosteron ban đầu nhất thời này bằng các thuốc kháng androgen,thí dụ cyproteron, nếu không, sẽ có nguy cơ tăng phát triển ung thư khi bắt đầu điều trị. Dùng dài hạn và liên tục, thuốc tương tự GnRH có tác dụng ngăn chặn lâu dài việc tiết gonadotropin tuyến yên, và do đó sau 2 đến 4 tuần điều trị nồng độ testosteron trong huyết thanh giảm tới mức như ở nam giới bị hoạn (nghĩa là dưới 50 nanogam/dl). Hậu quả là, các chức năng sinh lý và các mô phụ thuộc testosteron để duy trì trở thành không hoạt động. Các tác dụng này thường phục hồi sau khi ngừng điều trị. Ớ đa số phụ nữ trước tuổi mãn kinh dùng thuốc tương tự GnRH kéo dài liên tục, gây thoái triển khối u đáp ứng với estrogen. Nồng độ estradiol trong huyết thanh giảm tới mức tương tự như ở người sau mãn kinh trong vòng 3 tuần sau khi bắt đầu dùng thuốc. Hậu quả là, các chức năng sinh lý và các mô phụ thuộc steroid tuyến sinh dục (estrogen) để duy trì hoạt động, trở thành không hoạt động. Sau khi ngừng điều trị, nồng độ estradiol, FSH và LH trong huyết thanh thường trở lại mức trước khi điều trị. Trong thực nghiệm lâm sàng với goserelin, khoảng 10% phụ nữ tăng riêng biệt estradiol. Ngoài ra, một số phụ nữ dùng goserelin không thấy giảm kéo dài LH và FSH.
- Ớ trẻ em dậy thì sớm do nguyên nhân trung tâm dùng liên tục thuốc tương tự GnRH (nafarelin), nồng độ LH, testosteron và estradiol trong huyết thanh trở lại mức tiền dậy thì, làm mất các đặc tính sinh dục phụ và làm giảm tốc độ phát triển chiều cao và trưởng thành của xương. Sau khi ngừng thuốc, các tác dụng này thường phục hồi. Thuốc tương tự GnRH được dùng trong điều trị bệnh lạc nội mạc tử cung, chứng vô sinh, thiếu máu do u xơ tử cung (kèm theo bổ sung sắt), ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, dậy thì sớm. Một số được dùng trong vô sinh.
Không có trường hợp quá liều leuprorelin đã được biết đến.
Bảo quản ở nhiệt độ không quá 30°C.